Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

Ðể chữa hiệu quả bệnh zona

Zona là bệnh da do tái hoạt động của virut gây bệnh thủy đậu (virut Varicella Zoster) với biểu hiện nổi các mụn nước trên da và gây đau, rát.

Trong thời gian mắc thủy đậu, một số virut xâm nhập các tế bào thần kinh ở tủy sống, thường ở thần kinh cảm giác ngoài da và tồn tại ở trạng thái yên lặng tại các tế bào thần kinh này nhiều năm trước khi tái hoạt động. Sau đó, virut phát triển và di chuyển dọc theo dây thần kinh chi phối cho da gây tổn thương trên da với đặc điểm là tổn thương ở nửa bên người.
Một số yếu tố thuận lợi thúc đẩy virut tái hoạt động là nhiễm khuẩn, nhiễm độc, rối loạn chuyển hóa, mắc một số bệnh về máu, mệt mỏi, nhiễm lạnh, sang chấn tinh thần, các bệnh gây suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV/AIDS, người ghép tạng...
Bất cứ ai đã từng bị thủy đậu thì đều có nguy cơ bị mắc zona, có thể là người trẻ, người cao tuổi, có thể là phụ nữ hoặc nam giới, tuy nhiên thường gặp ở người nhiều tuổi hơn và bệnh có xu hướng nặng hơn.
Ðể chữa hiệu quả bệnh zona
Điều trị zona càng sớm hiệu quả càng cao.
Biểu hiện điển hình là tổn thương ở da
Đầu tiên, người bệnh cảm thấy đau nhức, nóng rát theo đường đi của dây thần kinh, hoặc ở một hoặc vài vùng da sẽ bị tổn thương. Sau khoảng 1 ngày, xuất hiện các dát, sẩn đỏ hơi gồ lên trên mặt da rồi tiến triển thành mụn nước ở vùng da bị đau, rát. 
Các mụn nước hình tròn hoặc bầu dục, có thể lõm ở giữa, lúc đầu chứa dịch trong, căng, trên nền da đỏ, rồi đục dần, sau 4 - 5 ngày nhăn nheo hoặc vỡ ra, khô lại đóng vẩy tiết màu vàng hơi nâu. Mụn nước sắp xếp thành đám, dải dọc theo đường đi của dây thần kinh.
Vị trí tổn thương rất đặc trưng, ở một bên cơ thể (không vượt qua đường giữa người). Thường gặp nhất là vùng ngực, vùng mặt, cổ; thắt lưng, cùng cụt, sinh dục và ít gặp hơn ở chân và tay.
Ngoài ra, bệnh nhân còn có cảm giác rất đau, rất khó chịu, kéo dài thậm chí hàng tháng hoặc hàng năm sau khi hết tổn thương trên da, thường người cao tuổi đau nhiều hơn và kéo dài hơn người trẻ; hạch bạch huyết xung quanh nơi tổn thương sưng, đau; có cảm giác mệt mỏi, kém ăn hoặc đau đầu, sốt, tùy từng trường hợp. Hiếm gặp hơn là giảm hoặc mất cảm giác, liệt cơ liên sườn, liệt dây thần kinh sọ não số VII và số V.
Bệnh thường tiến triển lành tính, nếu không có bội nhiễm, hệ miễn dịch bình thường, khỏi sau 2 - 4 tuần, khi lành để lại sẹo mất sắc tố. Những người cao tuổi hay gặp biến chứng đau sau zona với biểu hiện đau kéo dài vùng da đã từng bị tổn thương. 
Nguyên nhân đau là do thần kinh bị tổn thương. Có người cảm thấy ngứa khủng khiếp ở khu vực từng bị phát ban. Trong trường hợp nặng, đau hoặc ngứa có thể gây ra mất ngủ, giảm cân hoặc trầm cảm.
Ðể chữa hiệu quả bệnh zona
Hình ảnh virut gây bệnh zona.
Nhận diện các thể bệnh zona
Tùy theo vị trí có thể chia thành: zona liên sườn: thường gặp nhất với mụn nước sắp thành đám hay dải dọc theo dây thần kinh liên sườn ở một bên ngực, bụng; zona mặt: thường ở trán, mi mắt, cánh mũi, thậm chí cả niêm mạc mũi, zona vùng mặt nguy hiểm vì dễ có các biến chứng tổn thương mắt như viêm kết mạc, giác mạc, tổn thương thần kinh thị giác; zona vùng cổ: khu trú ở cổ, vai, gáy, mặt trong cánh tay; zona thắt lưng: vùng bụng, sinh dục, đùi; zona vùng cùng cụt: vùng tầng sinh môn, sinh dục ngoài; zona ở tay, chân ít gặp; zona đầu: tổn thương hạch gối, khu trú ở vành tai, kèm rối loạn thính giác, giảm cảm giác 2/3 trước của lưỡi. Đôi khi có liệt mặt ngoại vi.
Việc chẩn đoán xác định thường dựa vào tính chất mụn nước thành cụm, dải dọc theo dây thần kinh, ở một bên cơ thể kèm theo đau và hạch vùng.
Cần đặc biệt lưu ý phân biệt với bệnh do virut herpes: tổn thương đau ít, hay tái phát; viêm da tiếp xúc do côn trùng: có vết tích của côn trùng, tổn thương ở vị trí tiếp xúc với côn trùng, có thể một hoặc nhiều vùng, một hoặc hai bên cơ thể; thuyr đậu: thường gặp ở trẻ em, với mụn nước ở vùng đầu mặt, chi và thân, xuất hiện rất nhanh trong vòng 12 - 24 giờ, có thể toàn thân, không có hạch.
Điều trị thế nào?
Nếu xuất hiện đau rát và mụn nước trên da, cần đi khám và điều trị càng sớm, hiệu quả càng tốt. Nguyên tắc là kết hợp điều trị tại chỗ và toàn thân.
Cần vệ sinh tại chỗ sạch sẽ, mặc quần áo sạch sẽ tránh bội nhiễm. Hạn chế gãi vì gãi làm tăng nguy cơ bị nhiễm khuẩn và để lại sẹo. Tùy theo giai đoạn của bệnh mà cách điều trị khác nhau. Giai đoạn đầu, mụn nước chưa giập vỡ chỉ cần bôi dung dịch hồ nước. 
Nếu mụn nước giập vỡ có thể chấm thuốc màu như xanh metylen. Đồng thời sử dụng sớm thuốc chống virut, càng sớm càng tốt, nhất là trước 72h kể từ khi xuất hiện bệnh sẽ giúp cho nhanh khỏi, đỡ đau, có thể giảm nguy cơ biến chứng đau sau zona.
Sử dụng kháng sinh toàn thân: nếu tổn thương rộng hoặc có bội nhiễm. Có thể cần sử dụng thuốc giảm đau và thuốc chống dị ứng. Vitamin nhóm B cũng có hiệu quả giảm đau và bảo vệ thần kinh.
Theo BS Yến Ngọc - Sức khỏe và Đời sống

Rối loạn tiền đình "tấn công" người trẻ

Cụm từ “rối loạn tiền đình” (RLTĐ) ngày càng được nhiều người trẻ tuổi nhắc đến như một nỗi ám ảnh, nhất là dân văn phòng. Vì sao người bị RLTĐ lại ngày càng trẻ hóa.




Bệnh của nhiều bệnh
Nhiều người cho biết, trước khi bị rơi vào trạng thái chóng mặt, hoa mắt, buồn nôn - như nằm trên sóng - sức khỏe họ rất tốt. Nhưng chỉ trong chốc lát, họ đã không thể gượng lại được, nôn thốc nôn tháo, chóng mặt đến lao đao, nằm liệt cả ngày.
Chị Nguyễn Hải V. 30 tuổi - nhân viên kế toán, do công việc phải luôn tiếp xúc với máy tính và con số, nên thường xuyên bị chóng mặt và buồn nôn, đáng nói là lâu lâu triệu chứng này lại quay trở lại. 
Khủng khiếp nhất là gần đây, cơn chóng mặt hoa mắt khiến chị V. nhắm mắt cũng không yên mà mở mắt cũng không ổn, cảm giác như bị sóng đánh dập dồn, người bềnh bồng như không có trọng lượng. 
Chị V. cho biết, bác sĩ (BS) thông báo chị bị suy nhược do làm việc quá sức, kê toa thuốc về uống và nghỉ ngơi vài ngày. Bệnh có đỡ nhưng khi quay trở lại công việc thì các cơn chóng mặt lại ùa về. Liệu những biểu hiện của chị có phải là RLTĐ?
Theo TS.BS Nguyễn Hoài Nam - giảng viên ĐH Y Dược TPHCM, RLTĐ thực ra chỉ là một hội chứng biểu hiện của khá nhiều bệnh: bệnh của mạch máu não, bệnh của hệ thần kinh trung ương, các bệnh rối loạn hệ thống, các bệnh mạn tính và cả bệnh tự miễn. Trường hợp của chị V. có thể là biểu hiện của RLTĐ nhưng cũng có thể không phải.
Phân biệt rõ ràng nguyên nhân của hội chứng RLTĐ là một việc hết sức khó khăn, đòi hỏi kiến thức, kinh nghiệm của thầy thuốc và các xét nghiệm cận lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh đi kèm. Vì rất nhiều bệnh có thể gây nên hội chứng RLTĐ như xơ vữa động mạch gây hẹp động mạch cảnh, dị dạng mạch máu não, u não, huyết áp thấp, stress, rối loạn thần kinh thực vật, migrain, tiểu đường, suy kiệt trong bệnh ung thư, nhiễm siêu vi...
Tùy theo diễn tiến của bệnh, BS sẽ chỉ định cho bệnh nhân khám chuyên khoa: tim mạch, thần kinh, tâm lý, thậm chí là cả tai mũi họng…
Người trẻ mắc bệnh này ngày càng nhiều, vì sao?
Trước đây, RLTĐ được xem như bệnh lý "độc quyền" của tuổi trung niên và người lớn tuổi, nhưng ngày nay, rất nhiều người trẻ tuổi than phiền mình bị RLTĐ, có trường hợp nặng phải nhập viện cấp cứu. 
TS.BS Hoài Nam lý giải, hiện nay người trẻ bị stress do áp lực cuộc sống, áp lực công việc. Đó là chưa kể những nguyên nhân khác như môi trường ô nhiễm, thời tiết chuyển mùa… Trong đó, stress là một trong những nguyên nhân khá quan trọng của hội chứng RLTĐ.
Hệ thống tiền đình của cơ thể là một bộ phận rất quan trọng của hệ thần kinh trung ương, giúp cơ thể định vị được vị trí của mình trong không gian ba chiều và giúp con người ngồi hoặc đứng, đi lại dễ dàng. Một khi rối loạn hệ thống này, hệ thần kinh trung ương sẽ không làm được nhiệm vụ, gây chóng mặt và buồn nôn, đi kèm là bệnh nhân không thể hay khó khăn định vị vị trí của mình trong không gianba chiều.
Các triệu chứng nhận diện ban đầu, nếu có thì có thể là do mất ngủ, mệt mỏi. Nửa đêm về sáng, người bệnh trở mình thấy lao đao, ngồi dậy khó khăn; nhẹ thì có thể cố gắng đứng dậy được nhưng mất thăng bằng, dễ ngã; nặng thì chỉ nằm nguyên một tư thế, buồn nôn và có thể nôn dữ dội, mở mắt thấy mọi vật quay cuồng, đảo lộn. 
Người bệnh tỉnh táo, đầu không đau nhức nhưng nặng trĩu như bị nén, ép lại; sợ ánh sáng, tiếng động và sự thay đổi tư thế, muốn tìm sự yên tĩnh…
Bệnh nguy hiểm đến tính mạng, nếu nguyên nhân RLTĐ bắt nguồn từ những hội chứng như u não, tắc động mạch cảnh, ung thư… Trường hợp đã đi khám và được chẩn đoán là RLTĐ thì nên tuân thủ điều trịcủa BS.
Uống nhiều nước, ngủ đủ giấc, tập thể dục đều, tránh thay đổi tư thế đứng ngồi đột ngột, xa lánh tiếng ồn, căng thẳng, lo âu và stress là cách giúp phòng tránh RLTĐ hữu hiệu.
Theo Thiên Nga - Phụ nữ TPHCM

Liệt mặt ngoại biên có nên châm cứu?

Liệt dây thần kinh ngoại biên số VII Đông y gọi khẩu nhãn oa tà (gọi liệt mặt ngoại biên) là hiện tượng mặt người bệnh bị kéo lệch gây méo mồm, mắt không nhắm được.

Liệt dây thần kinh ngoại biên thường do lạnh gây ra mất hoặc giảm vận động nửa mặt của những cơ ở mặt do dây thần kinh VII chi phối. 
Có hai nguyên nhân chính: do mạch máu nuôi dây thần kinh bị co thắt dẫn tới thiếu máu cục bộ, gây ra hiện tượng phù nề và chẹn dây thần kinh trong ống Fallope. Hiện tượng này thường tiến triển nghiêm trọng đặc biệt vào mùa lạnh (có tới hơn 80% các trường hợp bị liệt dây thần kinh ngoại biên số VII là do lạnh)... 
Một nguyên nhân nữa là do virut. Thời tiết lạnh khiến các virut ở vùng tai, mũi, họng tăng mạnh. Chúng làm tổn thương dây thần kinh số VII ngoại biên. Ngoài ra, do các bệnh như luput ban đỏ, các chấn thương vùng đầu, một số tổn thương ở não như tổn thương cầu não, cầu tiểu não, ở nền sọ và trong xương đá,... đều có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Về điều trị: Liệt thần kinh số VII ngoại biên do lạnh điều trị bằng phương pháp châm cứu, điện châm đem lại hiệu quả rất tốt, nếu điều trị kịp thời đúng phương pháp bệnh sẽ khỏi trong vòng 2 - 4 tuần. Còn nếu do nguyên nhân khác thì việc điều trị sẽ khó khăn hơn. Để phòng bệnh liệt dây thần kinh VII do lạnh, cần giữ ấm khi trời lạnh.
Theo BS Đỗ Minh Hiền - Đời sống và Pháp luật

Sử dụng thuốc chữa đau thần kinh tọa

Đau thần kinh tọa y học gọi là bệnh khá phổ biến trong cộng đồng. Dây thần kinh hông to là dây thần kinh lớn nhất cơ thể, xuất phát từ đám rối thần kinh thắt lưng cùng.




Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây đau thần kinh hông to như bệnh lý cột sống (thoái hóa cột sống, dị tật bẩm sinh cột sống, lao cột sống, ung thư cột sống...), bệnh lý khớp cùng chậu... nhưng nguyên nhân hay gặp nhất là bệnh lý đĩa đệm, đặc biệt là thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. 
Theo nhiều tác giả thì có tới trên 80% số bệnh nhân đau thần kinh hông to là do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Chính vì vậy cần tìm ra nguyên nhân đau thần kinh hông to để có cách điều trị phù hợp.
Đặc điểm chung của đau dây thần kinh hông to là đau âm ỉ ngang thắt lưng, lan theo đường đi của dây thần kinh hông to (mặt sau đùi xuống mặt sau cẳng chân, gót chân, bàn chân).
Điều trị
Điều trị đau dây thần kinh hông to trước hết cần điều trị nguyên nhân gây đau thần kinh hông to. Cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Giai đoạn cấp tính (trong vòng một tuần đầu tiên) người bệnh cần được nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt, tránh vận động, không xoa bóp bấm huyệt, châm cứu, điện châm... để tránh co cứng cơ, có thể làm bệnh nặng thêm.
Sau giai đoạn cấp cho bệnh nhân vận động nhẹ nhàng tại chỗ tránh teo cơ, rối loạn dinh dưỡng.
Có thể kết hợp nhiều biện pháp như dùng thuốc tại chỗ với toàn thân, tây y kết hợp với đông y, lý liệu, vận động.
Điều trị đau thần kinh hông to do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
Trước hết cần tuân thủ các nguyên tắc ở trên, các biện pháp cụ thể như sau:
+ Dùng thuốc giảm đau kháng viêm toàn thân: lựa chọn thuốc tùy trường hợp cụ thể có thể dùng nhóm paracetamol, diclofenac,... Các thuốc này có ưu điểm là rẻ tiền, dễ mua nhưng có hại cho gan và có thể gây viêm loét đường tiêu hóa. 
Cần thận trọng dùng paracetamol cho người có tiền sử bệnh lý gan, nghiện rượu... Diclofenac không dùng cho người có tiền sử viêm loét dạ dày - tá tràng. Thuốc uống sau bữa ăn, chia làm 2 - 3 lần trong ngày.
Có thể lựa chọn các thuốc họ xicam, nhóm coxcib, các nhóm này ít tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, thời gian bán hủy dài nên có thể dùng một lần trong ngày. Tuy nhiên các tác dụng phụ trên hệ tim mạch còn đang được nghiên cứu và kiểm chứng. 
Tuyệt đối không được dùng các thuốc kháng viêm giảm đau để thủy châm hoặc phong bế trên đường đi của dây thần kinh hông to, vì các thuốc này có thể làm tổn thương dây thần kinh ngoại vi không hồi phục, gây liệt chi thể.
+ Những trường hợp nặng có thể dùng nhóm chống viêm dạng corticoid, tuy nhiên nhóm thuốc này cần rất thận trọng vì nhiều tác dụng phụ trên hệ miễn dịch, tiêu hóa, tim mạch, nội tiết, chuyển hóa..., nên dùng ngắn ngày, liều cao hoặc dùng tại chỗ và có chỉ định chặt chẽ của thầy thuốc.
+ Thuốc giãn cơ vân (myonal, mydocalm...), có thể dùng dạng tiêm hoặc uống. Dùng sau bữa ăn, thận trọng cho người có bệnh lý dạ dày - tá tràng, trẻ em và người già (do hệ thống cơ vân yếu). Không dùng cho bệnh nhân có bệnh nhược cơ. Đối với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có thể dùng thuốc giãn cơ vân kéo dài tới cả tháng.
+ Vitamin nhóm B: B1, B6, B12 là các vitamin có vai trò quan trọng trong chuyển hóa của tế bào nói chung, nhất là tế bào thần kinh và bao myelin tuy nhiên cũng nên dùng theo chỉ định của thầy thuốc, không nên coi nó là thuốc bổ mà lạm dụng. Hiện nay hay dùng dạng hỗn hợp 3 loại vitamin B.
+ Các thuốc có tác dụng tăng dẫn truyền thần kinh ngoại vi như galantamine. Cơ chế tác dụng của thuốc là ức chế men cholinesterase (men phân hủy acethyl cholin ở khớp - xinap thần kinh). Chỉ định cho các trường hợp đau thần kinh hông to đã có ảnh hưởng tới chức năng của dây thần kinh. Các tác dụng phụ có thể thấy là choáng váng, đau bụng, buồn nôn. Nên dùng liều thấp rồi tăng dần.
+ Các biện pháp điều trị tại chỗ như tiêm vào khoang ngoài màng cứng, khoang cùng cần được các bác sĩ chuyên khoa tiến hành tại các cơ sở y tế có trình độ chuyên môn cao.
Những trường hợp thoát vị nặng hoặc điều trị bảo tồn không khỏi cần sử dụng các biện pháp can thiệp như chọc hút đĩa đệm qua da, mổ nội soi hoặc phẫu thuật lấy bỏ đĩa đệm thoát vị... Các trường hợp này cần được chỉ định chặt chẽ và tiến hành tại các cơ sở y tế tin cậy.
Điều trị đau thần kinh hông to do thoái hóa cột sống thắt lưng và viêm khớp cùng chậuphương châm điều trị là bảo tồn, không can thiệp. Sử dụng các biện pháp sau:
+ Dùng thuốc giảm đau kháng viêm, lựa chọn thuốc tùy trường hợp cụ thể có thể dùng nhóm paracetamol, diclofenac, xicam, nhóm coxcib.
+ Thuốc giãn cơ vân, myonal, mydocalm.
+ Vitamin nhóm B: B1, B6, B12.
+ Các thuốc có tác dụng tăng dẫn truyền thần kinh như galantamine.
+ Kết hợp với các thuốc dự phòng và chống loãng xương, thoái hoá cột sống như các thuốc nhóm biphosphonat, nhóm cancitonin, glucosamin...
Tóm lại, điều trị đau dây thần kinh hông to quan trọng nhất là điều trị nguyên nhân, sử dụng nhiều biện pháp như nội, ngoại, đông tây y. Kết hợp tại chỗ với toàn thân, coi trọng các biện pháp vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, kết hợp giữa tự điều trị của người bệnh và có sự giúp đỡ của thầy thuốc.
Theo TS.BS Nhữ Đình Sơn - Sức khỏe và Đời sống

Ðau dây thần kinh liên sườn - Chớ coi thường

Đau dây thần kinh liên sườn là một bệnh rất hay gặp ở người trưởng thành

Đau dây thần kinh liên sườnlà một bệnh rất hay gặp ở người trưởng thành. Tính chất đau là đau liên tục suốt ngày đêm, đau tăng lên khi thay đổi tư thế, hít thở sâu hoặc vận động.
Ngoài ra còn có dấu hiệu như: sốt về chiều, mệt mỏi, sút cân... Đặc điểm nổi bật của bệnh đau dây thần kinh liên sườn hay tái phát, gây nhiều phiền toái cho người bệnh, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Nguyên nhân đau dây thần kinh liên sườn
Nguyên nhân gây đau dây thần kinh liên sườn rất đa dạng, có thể là tiên phát (nguyên nhân trực tiếp gây nên đau thần kinh liên sườn) do lạnh hoặc do vận động sai tư thế hoặc quá tầm. Một số trường hợp đau dây thần kinh liên sườn là do các bệnh khác đưa đến hoặc hậu quả của các bệnh khác, vì vậy được gọi là đau dây thần kinh thứ phát.
Một trong các bệnh dễ dẫn đến đau dây thần kinh liên sườn là bệnh thoái hóa cột sống lưng (D1-D12) hoặc do lao cột sống hoặc ung thư cột sống. Ngoài ra, một số bệnh thuộc tủy sống (u rễ thần kinh, u ngoài tủy), bệnh lý nhiễm trùng (vi khuẩn hoặc virut), trong đó hay gặp nhất là bệnh zona thần kinh mà căn nguyên là do virut Herpes Zoster.
Viêm đa rễ thần kinh, sức đề kháng yếu, mắc một số bệnh rối loạn chuyển hóa (đái tháo đường), dùng thuốc kháng viêm corticoide kéo dài hoặc do nhiễm độc một số kim loại (chì) cũng gây nên đau dây thần kinh liên sườn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới đau dây thần kinh liên sườn. Hình minh họa
Biểu hiện thế nào?
Đau dây thần kinh liên sườn là những cơn đau kéo dài hoặc xuất hiện từng đợt dọc theo dây thần kinh liên sườn và là biểu hiện của nhiều loại bệnh khác nhau. Cơn đau xuất hiện ở vùng cạnh sống hoặc vùng liên sống - bả vai, có thể đau một hoặc hai bên, đau lan theo khoang liên sườn ra phía trước ngực, thượng vị.
Cơn đau thường xảy ra âm ỉ đôi khi kéo dài cả ngày, đêm. Đau tăng lên khi hít thở sâu, thay đổi tư thế (xoay người, vặn mình), ho, hắt hơi. Cơn đau ở vùng lưng, ngực dễ nhầm với bệnh tim hoặc phổi, bởi vì da và các cơ quan vùng đau không có biểu hiện tổn thương. 
Nếu do hậu quả của thoái hóa cột sống lưng thì cơn đau thường âm ỉ, ê ẩm, cả khi vận động và ngay cả khi nghỉ ngơi. Nếu dùng ngón tay ấn vào vùng cạnh sống tương ứng với khe gian đốt sống thì người bệnh thấy đau tức và đôi khi đau lan theo đường đi của dây thần kinh liên sườn.
Đáng chú ý nhất là đau dây thần kinh liên sườn do zona. Bệnh nhân thấy đau rát ở vùng tổn thương zona một thời gian, có khi kéo dài hàng tháng và hay tái phát cơn đau. Nếu đau dây thần kinh liên sườn bởi bệnh lý lao cột sống hoặc ung thư cột sống, đau thường khu trú tại vùng cột sống bị tổn thương, đau nhói cả hai bên sườn, có khi đau như bó chặt lấy ngực hoặc bụng.
Trong các trường hợp này rất dễ chẩn đoán nhầm với cơn đau thắt ngực hoặc bệnh dạ dày - tá tràng. Tính chất đau là đau liên tục suốt ngày đêm, đau tăng lên khi thay đổi tư thế, hít thở sâu hoặc vận động. Ngoài ra còn có dấu hiệu của triệu chứng bệnh lao (sốt về chiều, mệt mỏi, sút cân...). Đặc điểm nổi bật của bệnh đau dây thần kinh liên sườn là hay tái phát.
Lời khuyên của bác sĩ
Nguyên tắc điều trị đối với bệnh đau dây thần kinh liên sườn, tốt nhất là dựa vào nguyên nhân gây bệnh (zona, lao, thoái hóa cột sống). Trong một số trường hợp không xác định được nguyên nhân thì chủ yếu là giải quyết điều trị triệu chứng. Việc cần làm là giảm đau bằng một số thuốc thông thường (paracetamol, felden, diclofenac...).
Bên cạnh đó cần dùng một số thuốc đặc trị đau thần kinh. Ngoài ra, nên dùng thêm các thuốc giãn cơ và các loại thuốc nhóm vitamin B (B1, B6, B12) là các vitamin có vai trò quan trọng trong chuyển hóa của tế bào, trong đó có tế bào thần kinh. Song song với dùng thuốc, cần có chế độ sinh hoạt và dinh dưỡng hợp lý như ăn uống đầy đủ chất đạm, đường, béo, trái cây, rau...
Không mang vác, làm việc quá sức, vận động sai tư thế làm ảnh hưởng đến cột sống. Mùa lạnh cần mặc ấm, phòng ngủ không có gió lùa. Không để mắc bệnh lao bằng cách khi tiếp xúc với bệnh nhân lao phải có bảo hộ tốt, trong trường hợp cần thiết nên cách ly. Trẻ mới sinh ra cần tiêm phòng vắc-xin phòng bệnh lao để lớn lên không mắc bệnh lao.
Theo BS Bùi Việt Anh - Sức khỏe và Đời sống

Chớ xem thường rối loạn tuần hoàn não

Hiện nay, các bệnh mạn tính như nhiễm mỡ máu, tăng huyết áp, thừa cân, béo phì, nghiện rượu, thuốc lá... và những áp lực của công việc, cuộc sống đang làm cho chứng bệnh này có xu hướng tăng. Rối loạn tuần hoàn não thường xảy ra ở độ tuổi trung niên trở lên. Tuy nhiên, ngay cả những người trẻ tuổi cũng là đối tượng nguy cơ của bệnh.
Người bình thường lưu lượng máu (tưới máu não là 55ml máu/100g não/phút), khi lưu lượng máu não đến não quá thấp (dưới 20ml/100g/phút) thì não sẽ bị thiếu máu (rối loạn tuần hoàn não). 
Hoạt động tim mạch bảo đảm hoạt động tưới máu não, nhất là huyết động học. Độ quánh của máu, lòng động mạch ảnh hưởng nhiều tới dòng chảy trong các mạch máu. Những stress trong cuộc sống hằng ngày cũng là yếu tố tác động tới việc xuất hiện căn bệnh này.
Chớ xem thường rối loạn tuần hoàn não
Tăng huyết áp, xơ cứng mạch não, stress… là các yếu tố nguy cơ của rối loạn tuần hoàn não.
Các biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não
Rối loạn tuần hoàn não hay còn gọi là thiểu năng tuần hoàn não, ở giai đoạn đầu có thể bù trừ, sau đó chuyển sang giai đoạn mất bù với cơn thiếu máu não thoáng qua - một sự rối loạn khu trú nhất thời tại não hay võng mạc và sẽ mất đi trong 24 tiếng.
Tuy đây là dấu hiệu đầu tiên của nguy cơ mắc tai biến mạch máu não về sau nhưng mọi người thường ít chú ý, đặc biệt là người trẻ. Những biểu hiện như mỏi tay chân ở một bên người, có cảm giác tê bì, co giật ở chi, hoặc đang nói chuyện người bệnh dừng lại không nói được, hay đột nhiên có người đi ngoài đường không nhớ đường về nhà... 
Những rối loạn này nếu không được điều trị sớm sẽ tiến triển nặng hơn nếu trong người có sẵn các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch...
Các rối loạn tuần hoàn não ít nhiều đều có phù não, gây ra các rối loạn về tâm lý, như người bệnh dễ nóng giận, buồn vui, hay quên, thậm chí không gọi tên được người thân ngồi trước mặt. Các rối loạn khác có thể gặp nữa là rối loạn thần kinh thực vật (cảm giác nóng bừng bừng, toát mồ hôi, nghẹt thở, lạnh các ngón chi, nổi da gà...), rối loạn kích thích, rối loạn đại tiểu tiện...
Rối loạn tuần hoàn não còn được chia theo vị trí tổn thương như ở vùng não bán cầu, vùng trán, vùng thái dương, vùng chẩm, vùng thân não, tiểu não...
Khi người bệnh bị rối loạn tuần hoàn não cấp tính, biểu hiện sẽ là tai biến mạch máu não. Đây là bệnh rất kinh điển. Những biểu hiện thường thấy của tai biến mạch máu não là sự đau đầu dữ dội, hôn mê, nôn và buồn nôn, liệt chi, méo tiếng, mất tiếng, xuất huyết não (ở các vị trí đặc biệt như chảy máu não thất, chảy máu tiểu não), nhồi máu não... người bệnh rất dễ tử vong.
Ở cấp độ mạn tính là tình trạng thiếu máu não mạn tính, các triệu chứng bệnh như tê mỏi chân tay, đau đầu, hoa mắt, mất ngủ, rối loạn cảm xúc, sa sút trí tuệ,... sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống và công việc.
Những yếu tố nguy cơ của rối loạn tuần hoàn não
Trường hợp mắc các bệnh mạn tính: tăng huyết áp, xơ cứng mạch não, tình trạng lắng đọng mỡ, đường trong máu, các bệnh van tim, rối loạn nhịp tim, suy thận mạn... là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra chứng bệnh này.
Sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, thời sinh học cũng là một yếu tố nguy cơ của rối loạn tuần hoàn não. Các cơn tai biến mạch máu não thường dễ gặp trong mùa lạnh. Về thời sinh học, con người có hai thời khắc dễ gặp rủi ro về tuần hoàn não nhất là vào thời điểm từ 4 - 5 giờ sáng và 5 - 6 giờ chiều.
Các yếu tố xã hội là nguy cơ của rối loạn tuần hoàn não: tình trạng dùng rượu, bia, nghiện thuốc lá là điều kiện thuận lợi cho chứng rối loạn tuần hoàn não. Xu hướng thừa cân, béo phì, ít vận động làm gia tăng bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch tác động xấu đến rối loạn tuần hoàn não. Những người thường xuyên lao động trí óc với cường độ cao, stress từ áp lực công việc, xã hội nặng nề, sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh.
Thực tế cho thấy, thói quen sống thụ động, phụ thuộc nhiều vào máy móc phương tiện, chế độ ăn giàu đạm béo hay làm việc quá sức, thiếu quan tâm đến các thay đổi về sức khỏe chính là tiền đề phát sinh bệnh. 
Vì vậy, rối loạn tuần hoàn não giờ không chỉ còn là bệnh của người lớn tuổi, khi não bị lão hóa qua thời gian mà còn là bệnh của người trẻ, những người lao động trí óc nhiều hoặc sinh hoạt thiếu khoa học.
Phòng bệnh vẫn là quan trọng nhất
Một chế độ ăn uống khoa học, hạn chế dùng các chất kích thích như rượu bia, thuốc lá và vận động thường xuyên luôn là phương án lý tưởng để phòng ngừa mọi bệnh tật, ngay cả với rối loạn tuần hoàn não. 
Trong bữa ăn hàng ngày, cần chú trọng tăng cường tỷ lệ rau quả, cá cũng như ưu tiên cho cách chế biến thanh đạm như hấp, luộc, thay vì dùng thịt, mỡ động vật và các món chiên xào. 
Song song đó, tập thể dục đều đặn sẽ giúp đẩy lùi các bệnh về tim mạch, huyết áp, thừa cân béo phì, stress vốn là những tác nhân dẫn tới bệnh. Ngoài ra, đối với những người làm việc trí óc nhiều, cần nghỉ ngơi định kỳ để tránh việc não bị quá tải.
Ngay khi có các dấu hiệu như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, tê mỏi chân tay,... cần đến ngay bệnh viện để được chẩn đoán cụ thể chứ không nên chủ quan, nhất là những người trẻ tuổi vì cho rằng sức khỏe còn tốt và dẻo dai. Nếu đã phát hiện mắc rối loạn tuần hoàn não, người bệnh phải tuân thủ những tư vấn của bác sĩ về chế độ ăn, tập luyện và dùng thuốc. 
Lưu ý không tắm nước lạnh khi mới đi ngoài nắng về, ngủ nơi có gió lùa hay bật dậy ngay khi vừa thức giấc... đặc biệt là người lớn tuổi. Bởi khi tuần hoàn não bị rối loạn thì những thay đổi đột ngột về nhiệt độ cơ thể và tư thế vận động có thể khiến não bị tắc nghẽn máu nhất thời, dễ gây ra tai biến mạch máu não.
Theo BS Hoàng Hà - Sức khỏe và Đời sống

Phát hiện bệnh Parkinson bằng xét nghiệm máu

Các nhà khoa học Mỹ tại ĐH Chicago đã đề xuất cách xét nghiệm máu nhằm có thể giúp thầy thuốc thần kinh sớm phát hiện bệnh Parkinson và theo dõi tiến triển của nó.

Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, các nhà khoa học phát hiện 2 dấu chỉ về gien cho thấy sự hiện diện của bệnh Parkinson chính xác đến 90%. 

Nhóm nghiên cứu đã theo dõi 101 bệnh nhân Parkinson và 90 người không mắc bệnh, phát hiện rằng biểu hiện về gien thay đổi đáng kể ở bệnh nhân Parkinson trong vòng 3 năm. 

Lâu nay, việc chẩn đoán bệnh Parkinson thường nhờ vào triệu chứng và thời gian gần đây có thể căn cứ vào hình ảnh quét não. 

Đồng tác giả nghiên cứu Judith Potashkin thông báo: "Mục đích của chúng tôi là cải thiện độ chính xác trong chẩn đoán Parkinson qua biện pháp tổng hợp gồm phân tích triệu chứng, quét não và xét nghiệm máu. Điều này giúp chẩn đoán bệnh trong thời kỳ đầu và theo dõi hiệu quả việc sử dụng thuốc".

Dấu chỉ về gien trong máu xác định bệnh Parkinson chính xác đến 90% Ảnh: HEALTHDAY NEWS
Dấu chỉ về gien trong máu xác định bệnh Parkinson chính xác đến 90% Ảnh: HEALTHDAY NEWS
Nhóm nghiên cứu đồng thời phát hiện 2 dấu chỉ nói trên cũng liên quan đến cách thức cơ thể xử lý glucose và insulin nên họ nêu khả năng có mối liên quan giữa bệnh Parkinson và bệnh đái tháo đường.
Theo Trúc Lâm - Người lao động

Lo lắng có ảnh hưởng đến bệnh tim mạch không?

Các lo lắng, căng thẳng cấp tính có thể gây ra tắc cấp tính động mạch như động mạch vành. Các lo lắng, căng thẳng kéo dài có thể làm tăng huyết áp. Các lo lắng về tâm lý, tình cảm làm mất tính ổn định điện của tim từ đó có thể gây ra rối loạn nhịp tim và ngừng tim.
Tuy nhiên có một điều thú vị là, các lo lắng căng thẳng lại tác động khác nhau tới mỗi người, ở người này các lo lắng căng thẳng gây ra tình trạng chán nản, đau đớn nhưng với một số người khác, các căng thẳng lo lắng làm cho họ càng thêm hăng hái. 
Để kiểm soát được các lo lắng, căng thẳng, bước đầu tiên, bạn cần biết nguyên nhân gây ra nó sau đó bạn sẽ học cách để đối phó với nó.
Kinh nghiệm để vượt qua các lo lắng, căng thẳng:
- Hãy giữ cho cuộc sống của bạn cân bằng
- Hãy học cách chấp nhận những việc bạn không thể làm được
- Hãy học cách nói “không” khi cần thiết

Theo Hội Tim mạch học Việt Nam

Triệu chứng và các biện pháp điều trị bệnh zona thần kinh

Bệnh zona (giời leo) là kết quả của sự tái hoạt động của virus herpes zoster (varicella-zoster virus hoặc VZV). Virus này cũng chính là tác nhân gây ra bệnh thủy đậu ở trẻ em.

Nguyên nhân gây bệnh
Chưa biết được chính xác nguyên nhân vì sao virus thủy đậu lại có thể tái hoạt động và gây ra bệnh zona. Một vài khả năng có thể xảy ra là:
- Stress
- Mệt mỏi
- Hệ miễn dịch suy yếu (có thể là do tuổi tác, bệnh tật, thuốc men làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể để có thể giữ được virus thủy đậu trong trạng thái bất hoạt).
- Ung thư
- Các biện pháp điều trị bằng tia xạ
- Làm tổn thương vùng da bị nổi ban
Triệu chứng
Ban đầu các chỗ phát bệnh thường đỏ sau đó chuyển thành những mảng mụn nước với cảm giác ngứa, nóng rát. Khoảng hai đến bốn tuần sau thì lành da. Bệnh zona có thể xảy ra bất cứ nơi nào trên cơ thể
Các triệu chứng đầu tiên của bệnh zona xuất hiện 1-5 ngày trước khi phát ban. Ban đầu bệnh nhân có thể bị ngứa, ngứa râm ran, đau ở chỗ phát bệnh, về sau bệnh phát triển người bệnh cảm thấy sốt, ớn lạnh, đau đầu, khó chịu ở dạ dày.
 - 1Bệnh zona có thể xảy ra bất cứ nơi nào trên cơ thể
Sự lây truyền
Bệnh zona có thể lây truyền từ người bị nhiễm sang trẻ em hay người lớn mà những người này trước đây không mắc bệnh thuỷ đậu. Thay vì bị zona, nhưng những người này lại mắc bệnh thuỷ đậu. Một khi những người này đã mắc bệnh thuỷ đậu thì họ sẽ không bị nhiễm zona từ người khác.
Tuy nhiên, một khi đã bị nhiễm zona, thì họ lại có khả năng bị zona sau này trong cuộc đời. Khi tất cả những mụn nước đã khô, thì không còn khả năng lây được nữa.
Các biến chứng của bệnh
Thường thì bệnh zona được chữa khỏi. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó, mụn nước có thể bị nhiễm thêm một loại vi trùng sẽ gây ra viêm mô tế bào, đây là bệnh nhiễm trùng da. Nếu nhiễm trùng da xảy ra, vùng da trở nên đỏ hơn, nóng, sưng bóng lên và rất đau.
Bạn cũng có thể thấy vệt màu đỏ xung quanh vết thương. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số đó, bạn hãy liên hệ đến bác sĩ của bạn để được chăm sóc. Kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị trong những trường hợp này.
Một biến chứng nữa cũng làm cho người bệnh lo lắng là khi bị zona ở mặt, đặc biệt ở trán và mũi. Trong những trường hợp này, zona có thể làm giảm thị lực. Nếu bạn bị zona ở trán hay ở mũi thì bạn cũng cần được chăm sóc y tế.
Điều trị:
Thuốc kháng virus
Trong khi không có cách chữa bệnh zona, thuốc kháng virus có thể làm giảm sự tấn công của chúng. Điều trị kịp thời có thể làm cho quá trình phát triển của bệnh ngắn hơn và nhẹ hơn. Không những thế còn giảm một nửa nguy cơ mắc chứng đau thần kinh sau zona. 
Các bác sĩ khuyên bạn nên bắt đầu sử dụng thuốc kháng virus theo toa, khi có dấu hiệu đầu tiên của một phát ban bệnh zona.
Thuốc hỗ trợ
Thuốc giảm đau không cần kê toa và các loại kem chống ngứa như calamine, có thể làm giảm đau và ngứa zona. Nếu cơn đau nặng hoặc phát ban tập trung gần mắt hoặc tai, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ ngay lập tức. Thuốc bổ sung, chẳng hạn như corticosteroid, có thể được quy định để giảm viêm.
Chăm sóc tại nhà
Để giúp các mụn nước nhanh khô, hãy đặt một khăn ướt lên chỗ phát ban, tập thể dục nhẹ nhàng hoặc tham gia một hoạt động yêu thích để làm cho bạn quên đi sự khó chịu của bệnh zona.
Theo Huyền Na - Đời sống và Pháp luật

Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2015

7 loại thực phẩm gây đau đầu nên tránh xa

Dưa bắp cải, đồ uống có cồn hay thịt xông khói... là những thực phẩm gây đau đầu bạn nên tránh xa.

Thịt xông khói. Xúc xích, thịt nguội, dăm bông và nhiều món ăn chế biến sẵn, đóng hộp khác thường được sản xuất với chất nitrit. Đây là chất cần thiết để tăng sự bảo quản trong hộp kín. Tuy vậy, nitric có trong thực phẩm chế biến sẵn có tác dụng không tốt cho hệ thần kinh của cơ thể bởi chất này có thể làm giãn mạch máu và kích thích cơn đau đầu.
Thịt xông khói, Xúc xích, thịt nguội, dăm bông và nhiều món ăn chế biến sẵn, đóng hộp khác thường được sản xuất với chất nitrit. Đây là chất cần thiết để tăng sự bảo quản trong hộp kín. Tuy vậy, nitrit có trong thực phẩm chế biến sẵn không tốt cho hệ thần kinh, làm giãn mạch máu và kích thích cơn đau đầu.

Caffeine cũng tác động đến đau đầu ở những mức độ khác nhau. Ở một số người, uống một lượng caffeine vừa phải (1 cốc cà phê mỗi ngày) là có thể trị đau đầu, nhưng với một số người chỉ một chút caffeine có thể thúc đẩy cơn đau đầu phát triển.
Caffeine cũng tác động đến đau đầu ở những mức độ khác nhau. Ở một số người, uống một lượng caffeine vừa phải (một cốc cà phê mỗi ngày) có thể trị đau đầu, nhưng nhiều trường hợp chỉ lượng nhỏ caffeine có thể thúc đẩy cơn đau đầu phát triển.

Nho. Nho là thực phẩm ít calo, giàu vitamin C và chất xơ, nhưng chúng cũng chứa tyramine, một axit amin tự nhiên hình thành từ sự phân hủy của protein trong thực phẩm. Tyramine có thể gây ra huyết áp tăng và đau đầu ở một số người.
Nho là thực phẩm ít calo, giàu vitamin C và chất xơ, nhưng cũng chứa tyramine, một axit amin tự nhiên hình thành từ sự phân hủy của protein trong thực phẩm. Tyramine gây tăng huyết áp và đau đầu ở một số người.

Rượu vang đỏ. Các nhà nghiên cứu cho rằng rượu vang đỏ có chứa tyramine, chất phytochemical được gọi là phenol, mới là những nguyên nhân thực sự gây ra nhức đầu.
Các nhà nghiên cứu cho rằng rượu vang đỏ có chứa tyramine, chất phytochemical được gọi là phenol, nguyên nhân gây nhức đầu.

Bia. Đối với một số người, uống bất kỳ loại rượu cũng có thể bị đau nửa đầu. Trong một số trường hợp khác, khi bạn uống bia, rượu whisky, rượu vang… sẽ làm suy giảm nồng độ serotonin trong não (hormone hạnh phúc làm cơ thể thư giãn) cũng có thể gây ra chứng đau nửa đầu.
Đối với một số người, uống bất kỳ loại rượu nào cũng gây đau nửa đầu. Trường hợp khác, khi bạn uống bia, rượu whisky, rượu vang… làm suy giảm nồng độ serotonin trong não (hormone hạnh phúc làm cơ thể thư giãn) cũng có thể gây ra chứng đau nửa đầu.

Bột ngọt. Cách đây 50 năm, các nhà dinh dưỡng đã nhận thấy những triệu chứng không tốt do bột ngọt gây nên. Bột ngọt có thể gây ra những tổn thương não, dùng bột ngọt lâu dài có thể làm giảm tỉ lệ huyết sắc tố, giảm bạch cầu (tức giảm yếu sự đề kháng của cơ thể) v.v…. Các thí nghiệm trên chuột, bò và khỉ cho uống bột ngọt cho thấy bột ngọt dùng liều cao đã phá hủy các tế bào thần kinh của những sinh vật này.
Cách đây 50 năm, các nhà dinh dưỡng đã nhận thấy những triệu chứng không tốt do bột ngọt gây nên. Bột ngọt có thể gây tổn thương não, dùng lâu dài làm giảm tỷ lệ huyết sắc tố, giảm bạch cầu (tức giảm yếu sự đề kháng của cơ thể). Các thí nghiệm trên chuột, bò và khỉ cho uống bột ngọt cho thấy dùng liều cao phá hủy các tế bào thần kinh của những sinh vật này.

Thực phẩm có chứa histamin bao gồm: dưa bắp cải, nước tương, đậu hũ, cải bó xôi, dâu, cà chua, nước sốt cà chua, bột cà chua, rượu, men và thực phẩm có chứa men, dứa, trái cây có múi, sô cô la.
Thực phẩm có chứa histamin bao gồm: dưa bắp cải, nước tương, đậu hũ, cải bó xôi, dâu, cà chua, nước sốt cà chua, bột cà chua, rượu, men và thực phẩm có chứa men, dứa, trái cây có múi, chocolate

Sai lầm phổ biến trong điều trị bệnh zona (giời leo)

Kinh nghiệm truyền miệng của nhiều người là nhai đỗ xanh, gạo nếp rồi đắp lên vết giời leo, việc này càng tăng thêm nguy cơ biến chứng. Vậy, cách phòng tránh, chữa trị bệnh ra sao?

Theo tài liệu trên website chính thức của Bệnh viện Nhiệt đới trung ương, bệnh Zona (giời leo) do virus herpes zoster (varicella-zoster virus hoặc VZV) gây ra. Virus này cũng chính là tác nhân của bệnh thủy đậu.
Triệu chứng
Tùy thuộc vào dây thần kinh nào bị ảnh hưởng, bệnh zona có thể xuất hiện ở nhiều khu vực khác nhau trên cơ thể.
Triệu chứng đầu tiên là cảm giác đau, ngứa, căng, bỏng, nhức ở một phía của cơ thể. Thông thường, sau khi cơn đau xuất hiện 1-3 ngày các dải ban sẽ nổi , tấy đỏ, phồng lên ở ngay vị trí đau. Sau đó nó sẽ tụ mủ và đóng vảy trong 10-12 ngày, 2-3 tuần sau, ban sẽ biến mất, vảy rơi ra, có thể để lại sẹo.
Quá trình ủ bệnh
Trước khi thấy những mẩn đỏ, bệnh nhân có thể xuất hiện cảm giác đau rát và nhạy cảm vùng da trước đó vài ngày đến một tuần. Bệnh zona khởi đầu là những mụn rộp (mụn nước) trên nền da màu đỏ, và tiếp tục hình thành mới từ 3-5 ngày. Mụn nước thường đi theo đường dây thần kinh của tuỷ sống.
Cuối cùng, các mụn vỡ ra và bắt đầu chảy nước, sau đó bề mặt khô đi và hoá sẹo. Quá trình này có thể kéo dài 3-4 tuần từ khi bắt đầu bị bệnh đến lúc khỏi, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn đau dù không nhìn thấy mụn nước.
Bệnh có thể phát triển thành dịch vào các mùa hè, mùa mưa do tiếp xúc hoặc sinh hoạt chung với những người mắc. Việc dùng chung khăn mặt, khăn tắm… với người bệnh có thể khiến bạn bị lây nhiễm.
Cách điều trị
Dùng băng ngâm nước lạnh đặt vào vết thương rỉ mủ trong khoảng 20 phút, mỗi ngày từ 7-8 lần để làm dịu bớt cơn đau và nhanh khô. Biện pháp này còn giúp lấy bớt vảy ra ngoài và giảm khả năng bị nhiễm trùng.
Giữ cho khu vực vết thương được sạch sẽ, mặc quần áo rộng. Tránh tiếp xúc da chạm da với những người chưa từng bị thủy đậu, đang bệnh, hoặc suy giảm hệ miễn dịch.
Bạn có thể sử dụng thuốc kháng virus như acyclovir (Zovirax), valacyclovir (Valtrex) và famciclovir (Famvir), có thể giảm thời gian phát ban và đau. Lưu ý, không được gãi vì tăng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát và có thể để lại sẹo. Điều trị tốt nhất là trong vòng 48 giờ tính từ khi có tổn thương da.
Nếu bệnh nhân đau cấp có thể uống thêm thuốc giảm đau thần kinh phối hợp như gabapentin (neurotin) hoặc pregabalin (lyrica) trong thời gian từ 1-3 tuần. Nếu sau khi tổn thương da khỏi mà vẫn còn đau thì phải điều trị bằng các thuốc trên kéo dài hơn.
Tuyệt đối không đắp đỗ xanh, gạo nếp hoặc các lá thuốc nam lên tổn thương da. Làm như vậy không chữa được bệnh mà đôi khi còn tăng nguy cơ nhiễm trùng, gây loét, kích ứng da...
Khi tổn thương da ướt, tiết dịch nhiều, bạn nên bôi các chế phẩm dạng dung dịch như jarish, dalibour, dung dịch kháng sinh. Khi tổn thương da khô hơn có thể bôi kem acyclovir. Nếu nhiễm trùng dùng thêm mỡ kháng sinh như foban, bactroban.
Bệnh nhân không cần kiêng ăn, vẫn tắm rửa, tập thể dục bình thường. Trong khi điều trị nếu có điều kiện, bạn nên chiếu laser He-Ne một đợt để góp phần giảm viêm, đau và hạn chế sẹo.
Khi nào cần đến gặp bác sĩ?
Nếu cảm thấy đau hoặc nổi ban thành dải ở một phía của cơ thể bạn cần đến gặp bác sĩ để được tư vấn tốt hơn. Lưu ý, vết ban ở mũi hoặc gần mắt, bạn cần phải đi khám ngay vì virus có thể gây tổn thương thị giác, thậm chí mù.
Nếu đang có bệnh gây suy giảm chức năng miễn dịch, hoặc sốt cao, mệt mỏi, vết phồng lan ra nhiều khu vực khác trên cơ thể, bạn cũng cần tìm gặp bác sĩ để tránh xảy ra biến chứng.

Bệnh Zona mọc chỗ nào nguy hiểm nhất?

Mấy ngày nay nhiều người ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc khốn khổ vì bị chứng bệnh zona. Thậm chí nhiều trẻ nhỏ cũng bị bệnh này.


Bệnh zona thần kinh thường xuất hiện theo chiều rộng dọc theo dây thần kinh.

Nguy hiểm khi bị zona ở mặt

Anh Vũ Xuân Thao trú tại Phú Xuyên, Hà Nội đưa con gái 5 tuổi bị zona thần kinh có mủ ở chân lên BV Da liễu Trung ương khám. Anh Thao kể, từ trước tết, các cháu ở quê anh nhiều người bị lắm nhưng anh và vợ chủ quan không kiêng cho con trẻ vì chưa biết đường lây của bệnh. Đến mùng 7 Tết, anh thấy chân con gái xuất hiện các nốt phỏng nhỏ và kèm theo cả dịch trắng.
Anh đưa con đi khám, bác sĩ cho biết cháu bị zona thần kinh và cho thuốc về bôi. Tuy nhiên, sau khi bôi xong, các vết bỏng đã xẹp nhưng để lại sẹo sâu vì cháu bị dạng mủ. Lo ngại vết sẹo ảnh hưởng tới thẩm mỹ của con nên anh và vợ đưa con xuống bệnh viện khám cho chắc.
Gia đình chị Nguyễn Thị Thanh ở Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội có tới hai người bị zona. Chị Thanh với gương mặt vẫn còn vết sẹo thâm của zona và cô con gái lớn bị zona ở lưng. Chị Thanh kể từ trong Tết chị bị zona nhưng đến nay mặt vẫn ngổn ngang sẹo ở má và cổ. Điều khiến chị Thanh khổ nhất là vết sẹo vẫn đau và làm chị cảm thấy bị ê mỏi cổ, đau lưng.
Trường hợp của chị Nguyễn Phương Thùy trú tại Hà Cầu, Hà Đông, Hà Nội cũng tương tự. Chị Thùy bị zona thần kinh ở vùng mắt. Chị vào nhập viện Nhiệt đới trung ương điều trị và hàng ngày phải sang khoa Mắt, BV Bạch Mai khám vì vùng bị zona nguy hiểm.
Chị Thùy kể, zona thần kinh ở vùng gần mắt khiến chị bị đau tai trong, đau đầu và mệt mỏi. Bệnh lành tính tưởng như đơn giản vậy mà khiến chị mất ăn, mất ngủ.
BS Nguyễn Thành, BV Da liễu Trung ương cho biết bệnh) là kết quả của sự tái hoạt động của virus herpes zoster (varicella-zoster virus hoặc VZV). Virus này cũng chính là tác nhân gây ra bệnh thủy đậu ở trẻ em.
Bệnh zona khác hoàn toàn với bệnh viêm da do côn trùng đốt và tiếp xúc với dịch tiết cơ thể của côn trùng. Nhiều người nhầm bệnh zona với kiến ba khoang nên tự mua thuốc về điều trị dẫn đến bệnh nặng hơn.
Dễ biến chứng nếu bị ở mặt
Triệu chứng của bệnh zona về mặt thần kinh: Rối loạn vùng da sắp nổi thương tổn. Cảm giác thường gặp nhất như bỏng, nóng rát, châm chích, tê đau, nóng rát da về đêm. Đối với người lớn tuổi có thể bị đau dữ dội từng cơn hoặc liên tục, đau dọc dây thần kinh ở nửa bên cơ thể.
Bên ngoài da xuất hiện các mảng màu hồng riêng lẻ và tụ thành mảng lớn. Trên bề mặt mảng này có những mụn nước hợp thành chùm ở trung tâm. Các mụn nước này có thể lớn thành bóng nước chứa dịch trong. Vài ngày sau mụn nước vỡ ra, khô và đóng vảy. Vị trí của da bị tổn thương rất đặc trưng ở nửa bên cơ thể và đi dọc theo đường đi của dây thần kinh.
Bệnh zona có thể lây truyền từ người bị nhiễm sang những người trước đây chưa mắc bệnh thuỷ đậu. Nếu chưa bị thủy đậu thì người bị lây sẽ mắc thủy đậu thay vì mắc zona. Người đã bị thủy đậu không sợ nhiễm zona từ người khác. Nhưng đã bị zona thì có thể bị lại trong cuộc đời, thông thường khi những mụn nước đã khô không còn khả năng lây được nữa.
PGS Nguyễn Văn Kính – Giám đốc BV Nhiệt đới Trung ương cho biết, bệnh zona hủy hoại tế bào thần kinh tủy sống và làm rối loạn chức năng dẫn truyền tín hiệu từ ngoài da.
Khi zona gây tổn thương dây thần kinh tam thoa ở mặt, mụn nước sẽ mọc ra trên mặt, trong miệng và mắt. Nếu mụn mọc gần mắt, bệnh nhân cần đi khám ở khoa mắt ngay vì nếu mắt bị nhiễm virus thì thị giác có thể bị mất. Nếu tổn thương dây thần kinh số VII sẽ đau tai trong, cảm giác trên mặt tê liệt, vị giác giảm, mắt mờ, mỏi.
Người cao tuổi bị mắc zona càng nặng hơn và các cơn đau dai dẳng ở dây thần kinh có thể kéo dài cả năm trời.
Khi bị bệnh zona cần tìm đến bác sĩ ngay để có biện pháp điều trị, phòng tránh viêm nhiễm vùng da tổn thương. Nếu vùng zona bị ở lưng và phần thân người, tay chân thì không nguy hiểm nhưng bị vùng mặt, nhất là mắt, trán, mũi cần vào viện càng sớm càng tốt.

BS Kính cho rằng khi có triệu chứng của zona không nên chần chừ mà đến bệnh viện ngay vì thuốc kháng virus dùng càng sớm càng tốt. Không được gãi vì có thể làm gia tăng nguy cơ bị nhiễm trùng thứ phát và có thể để lại sẹo.
Theo Khánh Ngọc - Infone

Bệnh trầm cảm đang lan rộng

Theo WHO, hiện có trên 350 triệu người bị trầm cảm với các mức độ khác nhau. Trong đó, mỗi năm có khoảng 1 triệu người giải thoát nỗi khổ của mình bằng cách tự tử.

Cuộc sống hiện đại đem lại cho con người nhiều sự tự do về vật chất, tinh thần nhưng cũng đẩy không ít người đến những nỗi buồn khó giải thích, để rồi đối mặt với các nguy cơ vô cùng nguy hiểm.
Nhiều người mắc bệnh nhưng không thừa nhận
Cách đây chưa lâu, tại miền Tây đã xảy ra vụ một hiệu trưởng trường tiểu học tự tử do trầm cảm. Thầy giáo này là người hiền lành, ít nói, có mối quan hệ xã hội tốt, thu nhập ổn định. Vì thế, cách ông tự giải thoát khiến dư luận bất ngờ.
Trầm cảm - một loại bệnh tâm lý làm suy giảm khả năng nhận biết, vận động của con người - đang phổ biến trong xã hội. 
Theo các chuyên gia, bệnh do hai nguyên nhân chính: nội sinh (từ bên trong, do di truyền) và ngoại sinh (do sốc tâm lý như thất tình, ly thân, ly dị, thi rớt, mất việc, người thân chết, làm ăn thua lỗ...). 
Người trầm cảm có biểu hiện tuyệt vọng, suy sụp, không tham gia những hoạt động thường ngày nữa. Họ xa lánh người thân, bạn bè; thậm chí có người còn nghĩ đến cái chết hay tự sát.
Trong đời sống hiện nay, tình trạng căng thẳng, mâu thuẫn khó giải quyết, bế tắc trong cuộc sống dễ dẫn đến trầm cảm. Nếu không được điều trị tích cực, bệnh sẽ không thuyên giảm, có thể dẫn đến nguy cơ tử vong do tự tử ở những trường hợp nặng.
 - 1Cứ 5 phụ nữ sau khi sinh con thì có 1 người bị trầm cảm. Trong ảnh: Sản phụ tại BV Phụ sản Từ Dũ (TPHCM)
Theo Tổ chức Y tế thế giới - WHO, có khoảng 10% - 15% dân số bị bệnh trầm cảm. Toàn cầu hiện có trên 350 triệu người bị trầm cảm và ước chừng 1 triệu người tự tử mỗi năm do mắc chứng này. 
Tại Việt Nam, tỉ lệ trầm cảm trong cộng đồng là 24,3% ở độ tuổi 25 - 55 và tăng lên 47% ở người trên 55 tuổi. Phụ nữ bị trầm cảm cao gấp 2 lần so với nam giới. 
Nguyên nhân là do có sự thay đổi về sinh hóa ở trong não, suy giảm hoạt động và số lượng các chất dopamin, serotonin. Ở nam giới, số người bệnh chưa được thống kê đầy đủ vì cánh mày râu thường ít chia sẻ những khó khăn của mình, biết kìm nén cảm xúc, âm thầm chịu đựng các áp lực trong cuộc sống.
WHO cũng cảnh báo rằng điều đáng lo ngại là rất nhiều người đang mắc bệnh nhưng lại không thừa nhận mình có bệnh.
Tỉ lệ tuân thủ điều trị thấp
Công bố khoa học về thực trạng rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân ung thư do các chuyên gia Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên thực hiện mới đây đã chỉ ra rằng tình trạng trầm cảm ở bệnh nhân ung thư là khá cao, với tỉ lệ 67,3%.
Tại BV Ung bướu TPHCM, nghiên cứu của BS Nguyễn Văn Phụng trên tất cả nữ bệnh nhân điều trị nội trú ung thư vú từ tháng 1 - 4/2014 cũng cho thấy có 26,8% bị trầm cảm.
Trong đó, tỉ lệ mắc trầm cảm cao nhất là ở người độc thân (58,1%) và thấp nhất thuộc nhóm có gia đình (16,9%). Theo các bác sĩ, tình trạng trầm cảm sẽ khiến bệnh cảnh bệnh nhân ung thư phức tạp hơn, tăng nguy cơ tử vong.
TS Bùi Quang Huy, Chủ nhiệm Khoa Tâm thần BV 103 (Hà Nội), cho biết có nhiều yếu tố làm tăng tỉ lệ tử vong ở các bệnh nhân ung thư, trong đó trầm cảm là yếu tố hàng đầu. Những biểu hiện trầm cảm chiếm khoảng 85% số bệnh nhân ung thư.
Như đã đề cập, bệnh trầm cảm nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc tuân thủ điều trị trong thực tế là còn thấp. 
Khảo sát của tác giả Phạm Thị Vân Phương (Khoa Y tế Công cộng Trường ĐH Y Dược TPHCM) mới đây trên gần 400 bệnh nhân điều trị trầm cảm đã phát hiện rằng chỉ có 58% tuân thủ điều trị. WHO cũng cho biết đã đưa ra phác đồ điều trị trầm cảm nhưng chưa đến 50% bệnh nhân chấp nhận chữa bệnh.
Các chuyên gia lưu ý rằng trong việc điều trị bệnh trầm cảm, giải pháp hữu hiệu nhất là sự hỗ trợ của người thân. 
Ngoài việc nhắc nhở bệnh nhân dùng thuốc hằng ngày, cần thấu hiểu nỗi đau của họ và có những việc làm thiết thực để nâng đỡ họ. Hãy giúp họ sống lạc quan, cổ vũ các hoạt động lành mạnh, thường để mắt đến những thay đổi trong hành vi, thái độ và lối sống (ăn, ngủ, vận động) và nhờ chuyên gia y khoa, tâm lý can thiệp ngay khi phát hiện điều gì bất thường. 
Trong một số trường hợp, bệnh nhân được điều trị bằng hình thức đối thoại. Qua đó, họ sẽ nhận ra nguyên nhân bệnh trầm cảm của mình và sẽ hợp tác tốt hơn khi có yêu cầu điều trị.
Theo Nguyễn Thạnh - Người lao động

Dấu hiệu dễ nhận biết bệnh Alzheimer

Bệnh Alzheimer có thể được chia thành các giai đoạn nhẹ, trung bình hoặc nặng. Mỗi giai đoạn đều có các triệu chứng riêng biệt.

Tuy nhiên, các triệu chứng ở mỗi người có thể khác nhau và thời gian tiến triển bệnh của từng giai đoạn cũng có thể thay đổi.
Alzheimer có thể được chia thành các giai đoạn nhẹ, trung bình hoặc nặng.Mỗi giai đoạn đều có các triệu chứng riêng biệt.Tuy nhiên, các triệu chứng ở mỗi người có thể khác nhau và thời gian tiến triển bệnh của từng giai đoạn cũng có thể thay đổi.
Alzheimer giai đoạn nhẹ (Giai đoạn đầu)
Thời gian kéo dài trung bình từ hai đến bốn năm với các triệu chứng:
- Rút khỏi công việc và các hoạt động xã hội và dành nhiều thời gian chỉ ngồi, xem TV, hoặc ngủ
- Hay quên các việc vừa mới xảy ra(ví dụ như vừa nói gì và quên đi sự kiện gần đây)
- Có vấn đề với ngôn ngữ, trong cả việc hiểu và diễn đạt
- Hơi có các vấn đề về sự phối hợp,biểu hiện trong việc gặp rắc rối với trình bày văn bản hoặc cách sử dụng các đồ vật quen thuộc.
- Khó hoàn thành nhiệm vụ quen thuộc hàng ngày.
- Thay đổi tâm trạng liên quan đến các giai đoạn trầm cảm hoặc sợ hãi
- Rắc rối khi lái xe
Tuy nhiên nếu có một vài hoặc thậm chí tất cả các triệu chứng trên không có nghĩa là bạn đã mắc bệnh Alzheimer bởi vì vấn đề chuyển hóa như suy giáp, lạm dụng ma túy, tương tác thuốc, bệnh Parkinson, căng thẳng, trầm cảm cũng gây ra các triệu chứng trên
Dấu hiệu dễ nhận biết bệnh AlzheimerHình ảnh minh họa
Alzheimer mức độ vừa
Giai đoạn vừa của bệnh Alzheimer thường kéo dài từ hai đến 10 năm.Trong giai đoạn này, mất trí nhớ trở nên tồi tệ hơn và phá vỡ cuộc sống hàng ngày.
Người bị bệnh Alzheimer có thể mất ý nghĩa lịch sử của riêng mình, hoặc không nhận ra các thành viên gia đình và bạn bè.Người bệnh cũng có thể quên nơi ở và không thể nhớ mình đã đi đâu.
Các triệu chứng khác của bệnh Alzheimer mức độ vừa bao gồm:
- Nói lan man
-  Sự cố với từ hoặc cụm từ chính xác cho khái niệm quen thuộc và sử dụng từ ngữ không phù hợp khi cố gắng giao tiếp
- Rắc rối với cách sắp xếp và giải quyết vấn đề
- Nhầm lẫn về thời gian hoặc địa điểm;một người bị bệnh Alzheimer có thể bị mất phương hướng ở những nơi quen thuộc.Ngoài ra, người bệnh có thể không biết làm thế nào và tại sao họ đã đến được nơi đó.
- Rối loạn giấc ngủ
- Lang thang
- Có các ảo tưởng
Những người bị bệnh Alzheimer mức độ vừa cũng có thể có những triệu chứng:
- Không mặc quần áo hợp thời tiết
- Hành vi và hành động không phù hợp
- Mất kiểm soát nhận thức ngày càng tăng, có thể dẫn đến tăng trầm cảm
- Gây hấn
Dấu hiệu dễ nhận biết bệnh AlzheimerHình minh họa
Alzheimer mức độ nặng
Giai đoạn thứ ba của Alzheimer được gọi là nghiêm trọng và còn được gọi là giai đoạn cuối. Nó thường kéo dài 1-3 năm, bao gồm các triệu chứng:
- Sự nhầm lẫn lớn về quá khứ và hiện tại
- Không có khả năng giao tiếp, nhớ, hay xử lý thông tin, cùng với sự mất khả năng ngôn ngữ
- Có vấn đề với việc ăn uống và kiểm soát đường ruột
- Giảm cân,co giật, dabị nhiễm trùng và các bệnh khác
- Thay đổi tâm trạng cực đoan
- Ảo giác và mê sảng
- Bất động
Theo Mai Hương - Học viện quân y

Thứ Ba, 3 tháng 3, 2015

Cảnh giác đột quị não khi giao mùa

Ai cũng biết rằng đột quị não, hay còn được gọi một cách nôm na là tai biến mạch máu não, có căn nguyên do tổn thương xơ vữa mạch não hoặc do tăng huyết áp.

Ai cũng biết rằng đột quị não, hay còn được gọi một cách nôm na là tai biến mạch máu não, có căn nguyên do tổn thương xơ vữa mạch não hoặc do tăng huyết áp. Nhưng còn một nguyên nhân cũng rất hay gặp trên thực tế lâm sàng gâyđột quị não, đó là nguyên nhân do... tim mà đặc biệt khi giao mùa thời tiết lạnh đột ngột.
Bệnh tim và đột quị não
Bệnh lý của tim có thể gây đột quị não khi những loại bệnh tim này là nguyên nhân của việc xuất hiện những cục máu đông (huyết khối) trong buồng tim (nhất là tâm nhĩ trái hoặc tâm thất trái). 
Một khi cục máu đông đã được hình thành trong buồng tim, nguy cơ nó có thể bong ra, xuống tâm thất trái, vào vòng đại tuần hoàn gây tắc mạch là rất lớn. Cục máu đông trôi theo hệ thống động mạch (ĐM) lên não (hệ mạch cảnh và sống - nền) sau đó sẽ bị kẹt ở một nhánh ĐM nào đó và gây nên triệu chứng.
Cảnh giác đột quị não khi giao mùa
Cục máu đông đã được hình thành trong buồng tim, nguy cơ nó có thể bong ra, xuống tâm thất trái, vào vòng đại tuần hoàn gây tắc mạch là rất lớn.
Các điều kiện làm cho huyết khối dễ hình thành trong tâm nhĩ bao gồm tần số đập của tâm nhĩ, kích thước tâm nhĩ, tình trạng máu tăng đông hoặc máu bị cô đặc do mất nước. Khi tâm nhĩ đập quá nhanh hay "rung" lên đơn thuần, máu sẽ luẩn quẩn ở tâm nhĩ mà không xuống tâm thất được nên dễ bị đông. Điều kiện thứ hai đó là kích thước của tâm nhĩ. Tâm nhĩ càng giãn to thì khả năng hình thành huyết khối trong đó càng lớn.
Rung nhĩ là một loại loạn nhịp gây ra bởi những xung động rất nhanh (khoảng 400 lần/phút) và rất không đều tác động lên tâm nhĩ làm cho nó gần như không kịp co bóp nữa mà chỉ "rung" lên không đều ở từng phần, từng sợi cơ. Trên lâm sàng, rung nhĩ chính là biểu hiện của chứng "loạn nhịp hoàn toàn".
Một số bệnh tim có biểu hiện rung nhĩ như bệnh hẹp van hai lá, bệnh mạch vành, viêm màng ngoài tim, ngộ độc digitan, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, bệnh cơ tim phì đại và một số trường hợp không rõ nguyên nhân.
Biểu hiện của đột quị não do tim
Đột quị não do tim biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng. Khởi đầu bệnh nhân thấy đau đầu dữ dội, thất ngôn, liệt nửa người không đồng đều giữa tay và chân, hôn mê ở các mức độ khác nhau. Bệnh nhân có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề nếu cục máu đông gây tắc mạch lớn ở não.
Các trường hợp nhẹ hơn có thể chỉ biểu hiện bằng triệu chứng méo miệng, nói ngọng, nuốt sặc, liệt thần kinh vận nhãn. Cũng có thể cục máu đông, sau khi trôi lên não gây tắc mạch, tự tiêu đi theo cơ chế đông máu nên chỉ gây liệt trong thời gian ngắn và người bệnh có thể hồi phục hoàn toàn.
Chẩn đoán xác định đột quị não do tim dựa vào các triệu chứng lâm sàng của đột quị não ở người có bệnh tim đang bị loạn nhịp hoàn toàn hoặc loạn nhịp nhanh cộng với phim chụp cắt lớp, phim chụp cộng hưởng từ sọ não thấy có hình ảnh nhũn não (tắc mạch não) và siêu âm tim thấy có huyết khối tâm nhĩ trái, huyết khối van hai lá cơ học...
Dự phòng được không?
Dự phòng biến chứng tắc mạch não do rung nhĩ bao gồm hai vấn đề chủ yếu. Thứ nhất là kiểm soát tần số tim hoặc cố gắng đưa nhịp tim về nhịp xoang với các biện pháp như dùng thuốc (digitan, cordarone), sốc điện, đốt ổ loạn nhịp, phẫu thuật (thủ thuật Maze).
Thứ hai là ngăn cản sự hình thành huyết khối bằng việc sử dụng các thuốc chống đông. Các thuốc chống đông hay được dùng là thuốc loại chống kết tập tiểu cầu (aspirin, aspegic), thuốc kháng vitamin K như sintrom.
Việc uống thuốc dự phòng phải đều đặn, theo đúng chỉ định và phải được kiểm tra thường xuyên bởi các thầy thuốc chuyên khoa tim mạch. Điều trị dự phòng huyết khối phải được kết hợp với xử trí nguyên nhân gây rung nhĩ như nong tách hẹp van hai lá qua da hoặc mổ thay van, điều trị các bệnh mạch vành, đái tháo đường, viêm phổi. 
Bệnh nhân cũng nên duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt tránh uống rượu và hút thuốc lá (những tác nhân dễ gây kích thích khởi phát cơn rung nhĩ), ăn nhạt, tập thể dục hoặc vận động phù hợp, tránh những xúc cảm hoặc stress, ăn uống đầy đủ...
Tóm lại, phải luôn cảnh giác với biến chứng tắc mạch gây đột quị não ở bệnh nhân có biểu hiện rung nhĩ (hay loạn nhịp hoàn toàn) do bất cứ nguyên nhân nào, từ đó có chiến lược dự phòng huyết khối để tránh các biến chứng nói trên có thể xảy ra.
Theo TS.BS Vũ Đức Định - Tiền phong

Đột quỵ - bệnh nguy hiểm chết người dễ mắc vào mùa đông


Thông tin được đưa ra tại Hội nghị về đột quỵ não khu vực Châu Á Thái Bình Dương 2014 có thể sẽ khiến không ít người phải giật mình. Đó là cứ mỗi 45 giây trôi qua, trên thế giới lại có ít nhất 1 người bị đột quỵ và cứ 3 phút thì có 1 người tử vong do bệnh này.
Đột quỵ và nguyên nhân gây đột quỵ?
Đột quỵ (còn gọi là tai biến mạch máu não, xuất huyết não) xảy ra khi lượng máu cung cấp cho một phần của não bộ đột nhiên bị chặn lại hoặc khi có một mạch máu trong não bộ bị vỡ khiến máu tràn vào những khoảng không xung quanh các tế bào não. 
Cũng giống như một người bị mất luồng máu cấp tới tim gây nên hiện tượng trụy tim thì người bị mất luồng máu lên não hoặc chảy máu bất ngờ trong não có thể được gọi là "não quỵ".
Đột quỵ là căn bệnh thường xảy ra ở người già. Tuy nhiên những năm gần đây, số người trẻ bị đột quỵ có xu hướng tăng do lối sống không lành mạnh như nghiện thuốc lá, rượu bia, chế độ ăn uống thiếu khoa học, cuộc sống hiện đại với nhiều căng thẳng, kèm theo lối sống ít vận động khiến người trẻ tuổi dễ mắc các bệnh về chuyển hóa như béo phì, tiểu đường, cholesterol trong máu tăng cao…
Theo thống kê của một số bệnh viện, số người trẻ bị đột quỵ vào viện cũng tăng từ 20% đến 30% so với vài năm trước đây...
Đột quỵ - bệnh nguy hiểm chết người dễ mắc vào mùa đông - Ảnh 1
Ảnh minh họa.
Triệu chứng của đột quỵ?
Những triệu chứng của đột quỵ rất dễ phát hiện, bao gồm: đột nhiên bị tê liệt hoặc đuối sức, đặc biệt là ở một nửa cơ thể; đột nhiên khó phát âm hoặc đầu óc lẫn lộn không hiểu được người khác nói; đột nhiên một mắt nhìn không rõ; đột nhiên đi loạng choạng, chóng mặt hoặc mất thăng bằng hoặc không phối hợp được hoạt động; hoặc đột nhiên đau đầu trầm trọng mà không rõ nguyên nhân.
Dựa vào tiến triển của bệnh trong 2 - 3 tuần đầu, giới chuyên môn chia đột quỵ thành 5 loại:
- Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua: Khỏi hoàn toàn trước 24h. Về sau, bệnh nhân có thể bị tai biến mạch máu não thực sự nếu không quan tâm đến việc điều trị và phòng ngừa.
- Thiếu máu não có hồi phục: Khỏi hoàn toàn sau 24h bị liệt.
- Khỏi một phần và di chứng kéo dài.
- Không hồi phục hoặc nặng lên liên tục.
- Diễn tiến đến tử vong.
Trong vòng vài giờ sau khi tai biến mạch máu não xảy ra, các triệu chứng đột ngột xuất hiện:
- Yếu liệt hoặc tê rần ở vùng mặt, tay hoặc chân, đặc biệt là một bên cơ thể, chỉ một tay hoặc một chân.
- Lú lẫn, rối loạn lời nói hoặc hiểu biết (khó tìm từ hoặc không hiểu từ; nói líu ríu, lắp bắp).
- Không nhìn thấy ở một hay cả hai mắt, hoặc nhìn một hóa hai.
- Khó khăn khi bước đi, mất thăng bằng, chóng mặt hoặc khó phối hợp các động tác.
- Nhức đầu dữ dội mà không biết nguyên nhân. Suy giảm ý thức nhanh chóng. Mất thăng bằng, chóng mặt, nôn, kèm theo nhức đầu.
Trong một số trường hợp, người bệnh vẫn còn tỉnh táo, nhưng đa số bị giảm sút tri giác (như lơ mơ, ngủ gà, có thể hôn mê). Bệnh nhân có thể liệt nửa người, liệt mặt và các cơ hầu họng (gây nuốt khó, sặc khi ăn uống, nói khó), tiêu tiểu không tự chủ.
Vì sao bệnh đột quỵ dễ mắc và tăng cao vào mùa đông?
Mùa đông khiến tình trạng bệnh cao huyết áp chuyển biến xấu hơn, nhiều khả năng dẫn tới suy tim hoặc đột quỵ.Theo một thống kê, số bệnh nhân đột quỵ có nguy cơ tăng cao đến hơn 15% vào mùa này.
Vào mùa lạnh, cơ thể tăng tiết các catecholamine trong máu dẫn đến co mạch ngoại biên. Mạch máu ở một số vùng co lại sẽ đẩy máu ra những khu vực ít chịu ảnh hưởng hơn, gây giãn mạch thụ động ở những nơi đó (như mạch não, mạch phổi), do đó, dễ gây các biến chứng đứt mạch não hoặc phù phổi cấp.
Ngoài ra, thời tiết lạnh cũng làm tăng số lượng tiểu cầu, hồng cầu và độ nhớt của máu, làm tăng nguy cơ bệnh động mạch vành, tai biến mạch máu não và bệnh mạch máu ngoại vi, đặc biệt ở người già bởi khả năng miễn dịch và tính chịu đựng cơ thể kém, mạch máu giảm tính đàn hồi, trở nên cứng hơn, máu tăng độ quánh do tăng cholesterol, giảm enzyme tiêu hủy sợi huyết, lòng mạch bị thu hẹp, máu hay bị kết vón, lưu lượng máu qua não giảm đến 1/5 so với thông thường, dự trữ chức năng không còn nhiều nên rất khó thích nghi với những thay đổi bất thường của thời tiết.
Đặc biệt, với những người có tiền sử huyết áp cao, thành mạch máu thoái hóa dày lên, sẽ ảnh hưởng tới tuần hoàn não. Khi gặp thay đổi đột ngột từ bên ngoài, những động mạch đưa máu lên não bị tắc nghẽn, não sẽ bị thiếu chất dinh dưỡng và oxy, dẫn đến đột quỵ và tử vong.
Cũng theo các nhà khoa học tại trung tâm y tế Cleveland (Mỹ), sự thay đổi lớn về nhiệt độ, từ ấm sang lạnh, làm tăng huyết áp, khiến mạch máu bị thắt lại. Mạch máu khi bị biến dạng sẽ dễ dẫn tới tình trạng phình động mạch chủ, gây đột quỵ.
Thêm vào đó, vào mùa đông, số người uống rượu càng nhiều. Chất cồn lưu lại trong máu lâu do khả năng bài tiết qua đường mồ hôi giảm, dẫn tới tăng huyết áp, nhịp tim, tăng lưu lượng máu và làm giảm độ kết dính của máu. Khi đó, chỉ cần xuất huyết nhẹ là đủ dẫn tới tai biến.
Phòng ngừa đột quỵ như thế nào, đặc biệt là vào mùa đông?
Để dự phòng bệnh đột quỵ trong mùa đông và hỗ trợ điều trị cần phải kết hợp đồng thời giữa chế độ sinh hoạt hợp lý. 
Hơn nữa, việc hạn chế mỡ động vật, tránh rượu, thuốc lá; giữ đủ ấm, tránh những đợt gió lạnh bất thường ùa vào khi cửa mở, sống thư thái, tránh căng thẳng, ngăn ngừa stress... sẽ giúp người cao tuổi thích ứng tốt hơn với môi trường sống, tránh được tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, chúng ta cần:
- Điều trị tốt bệnh huyết áp cao (nguyên nhân chính gây đứt mạch máu não).
- Phòng và điều trị tiểu đường (yếu tố nguy cơ gây mảng xơ vữa động mạch lớn, dẫn đến thiếu máu ở não).
- Khắc phục tình trạng tăng cholesterol máu cùng với triglyceride máu.
- Phòng và trị bệnh đa hồng cầu (có thể gây cơn thiếu máu não hay nhũn não).
- Nên ăn nhiều rau củ quả; hạn chế muối; đời sống tình cảm tâm lý ổn định, tránh những xúc động hay chấn thương quá mức.
- Thay đổi nếp sống tĩnh tại, ít vận động; tăng cường tập thể dục, vận động vừa sức sao cho phù hợp với tình hình sức khỏe.
- Kiểm tra sức khỏe định kỳ thường xuyên.
Thêm vào đó, bạn có thể dùng thêm một số sản phẩm có tác dụng giảm độ quánh của máu, tăng sức bền và độ đàn hồi thành mạch, kéo dài thời gian đông máu, ức chế ngưng tập tiểu cầu, ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông, giúp cho việc lưu thông máu lên não tốt.

Theo Thiên Bình - Đời sống và Pháp luật

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons